Lịch sử hoạt động USS Razorback (SS-394)

1944

Đang khi chạy thử máy ngoài khơi vùng biển New London, Connecticut, Raizorback bị mắc cạn ngoài khơi Race Rock tại eo biển Block Island. Môt ủy ban điều tra đã cách chức Hạm trưởng Bontier lẫn Hạm phó, Đại úy Hải quân John Haines, thay thế họ bằng Trung tá Hải quân Roy S. Benson và Thiếu tá Hải quân C. Donald Brown. Chiếc tàu ngầm tiếp tục chạy thử máy huấn luyện tại vùng biển New England, cho đến khi lên đường băng qua kênh đào Panama để đi sang khu vực Thái Bình Dương.[1]

Chuyến tuần tra thứ nhất

Rời Trân Châu Cảng, Hawaii vào ngày 25 tháng 8, 1944 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh, Razorback hoạt động tại vùng biển về phía Đông đảo Luzon, Philippines trong thành phần một đội tấn công hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Palau vào giữa tháng 9. Sau khi chỉ phát hiện máy bay tuần tra chống ngầm đối phương, nó hướng lên phía Đông Bắc và đi đến căn cứ Midway vào ngày 19 tháng 10.[1]

Chuyến tuần tra thứ hai

Khởi hành từ Midway vào ngày 15 tháng 11 cho chuyến tuần tra thứ hai, Razorback hoạt động trong thành phần một đội tấn công phối hợp ("Bầy sói") vốn còn bao gồm các tàu ngầm Trepang (SS-412)Segundo (SS-398), và đặt dưới sự chỉ huy chung của Thiếu tá Brown. "Bầy sói" đã hoạt động trong eo biển Luzon, nơi Razorback đã phóng ngư lôi gây hư hại cho chiếc tàu chở hàng Kenjo Maru (6.933 tấn) vào ngày 6 tháng 12. Đến ngày 30 tháng 12, tại khu vực eo biển Ba Sĩ, nó tấn công hai lượt với tổng cộng sáu quả ngư lôi, và hai quả trúng đích đã đánh chìm tàu khu trụcKuretake (820 tấn) ở vị trí cách 60 nmi (110 km) về phía Đông Nam Đài Loan, tại tọa độ 21°00′B 121°24′Đ / 21°B 121,4°Đ / 21.000; 121.400,[18][19] đồng thời gây hư hại cho một tàu chở hàng khác. Nó kết thúc chuyến tuần tra khi quay trở về căn cứ tại Guam thuộc quần đảo Mariana vào ngày 5 tháng 1, 1945.[1]

1945

Chuyến tuần tra thứ ba

Trong chuyến tuần tra thứ ba từ ngày 1 tháng 2 đến ngày 26 tháng 3, 1945, Razorback hoạt động tại khu vực biển Hoa Đông trong thành phần một "Bầy sói" khác bao gồm các tàu ngầm Segundo và Sea Cat (SS-399). Nó chỉ phá hủy được bốn tàu gỗ bằng hải pháo trong ba vụ đụng độ khác nhau, rồi chuyển ba tù binh chiến tranh Nhật Bản đến Guam trước khi kết thúc chuyến tuần tra tại Trân Châu Cảng.[1]

Chuyến tuần tra thứ tư

Khởi hành vào ngày 7 tháng 5 cho chuyến tuần tra thứ tư, Razorback làm nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu tại các khu vực quần đảo Nanpōvịnh Tokyo. Vào ngày 25 tháng 5, nó đã cứu vớt một phi công máy bay tiêm kích P-51 Mustang, Trung tá Charles E. Taylor thuộc Liên đội Tiêm kích 21; rồi đến ngày 5 tháng 6, chiếc tàu ngầm tiếp tục cứu vớt bốn thành viên một đội bay máy bay ném bom B-29 Superfortress, bị bắn rơi trong một phi vụ ném bom xuống Kobe. Nó kết thúc chuyến tuần tra tại căn cứ Midway vào ngày 27 tháng 6.[1]

Chuyến tuần tra thứ năm

Rời Midway vào ngày 22 tháng 7 cho chuyến tuần tra cuối cùng trong chiến tranh, Razorback hoạt động tại khu vực biển Okhotsk, nơi nó đánh chìm sáu tàu chở hàng nhỏ bằng hải pháo cùng gây hư hại cho hai chiếc khác. Phần lớn thời gian còn lại được dành cho nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu ngoài khơi Paramushiro, hỗ trợ cho máy bay xuất phát từ Alaska, cho đến khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột. Nó cùng 11 tàu ngầm khác đi đến vịnh Tokyo vào ngày 31 tháng 8 để tham gia buổi lễ ký kết văn kiện đầu hàng, rồi khởi hành vào ngày 3 tháng 9, ghé đến Trân Châu Cảng vào ngày 11 tháng 9, và về đến San Diego, California vào ngày 20 tháng 9.[1]

1945 - 1954

Trong những năm tiếp theo Razorback tiếp tục hoạt động cùng Hạm đội Thái Bình Dương, thực hiện những chuyến đi sang Nhật BảnTrung Quốc vào đầu năm 1948 và cuối năm 1949. Vào tháng 8, 1952 nó xuất biên chế[1][16][17] để được hiện đại hóa trong khuôn khổ Chương trình Công suất đẩy dưới nước lớn hơn (GUPPY IIA), giúp cải thiện đáng kể tốc độ lặn dưới nước và tầm xa hoạt động. Tái biên chế trở lại vào tháng 1, 1954,[1][16][17] con tàu được điều về Hải đội Tàu ngầm 10 và tiến hành chạy thử máy ngoài khơi New London, Connecticut trước khi quay trở lại vùng bờ Tây, và gia nhập Hải đội Tàu ngầm 3 đặt căn cứ tại San Diego vào ngày 24 tháng 5, 1954.[1]

1954 - 1970

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: USS Razorback (SS-394) https://www.history.navy.mil/research/histories/sh... http://navsource.org/archives/08/pdf/0829295.pdf http://nrhp.focus.nps.gov/natreg/docs/All_Data.htm... http://www.ibiblio.org/hyperwar/Japan/IJN/JANAC-Lo... http://www.navsource.org/archives/08/08394.htm https://uboat.net/allies/warships/ship/3127.html http://focus.nps.gov/AssetDetail/NRIS/04001502 https://commons.wikimedia.org/wiki/Category:USS_Ra... http://aimmuseum.org/ https://tools.wmflabs.org/geohack/geohack.php?lang...